Biện pháp xử lý tình trạng đăng ký nhãn hiệu với “dụng ý xấu”
Thblaw.com.vn
-
Việc đăng ký nhãn hiệu với “dụng ý xấu” đã xuất hiện từ lâu trong pháp luật về sở hữu trí tuệ ở một số quốc gia như Anh, Mỹ. Tại Việt Nam, các quy định liên quan đến “dụng ý xấu” trong đăng ký nhãn hiệu mới được bổ sung gần đây tại điều […]
Việc đăng ký nhãn hiệu với “dụng ý xấu” đã xuất hiện từ lâu trong pháp luật về sở hữu trí tuệ ở một số quốc gia như Anh, Mỹ. Tại Việt Nam, các quy định liên quan đến “dụng ý xấu” trong đăng ký nhãn hiệu mới được bổ sung gần đây tại điều 96 và điều 117 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2023).
Việc bổ sung thuật ngữ này nhằm giải quyết vấn đề lạm dụng nguyên tắc “first-to-file” (nộp đơn đầu tiên) và kiểm soát một cách hiệu quả nạn đầu cơ nhãn hiệu hoặc chiếm đoạt nhãn hiệu, đánh cắp tài sản trí tuệ, đặc biệt những nhãn hiệu có uy tín, danh tiếng – một xu hướng đang gia tăng tại Việt Nam. Với quy định về “dụng ý xấu”, chủ nhãn hiệu đích thực có thêm một cơ sở pháp lý quan trọng để thách thức hiệu lực của nhãn hiệu do bên thứ ba đã nộp đơn hoặc đăng ký trên cơ sở không trung thực (dụng ý xấu) để giành lại quyền bảo hộ nhãn hiệu của mình theo thủ tục phản đối hoặc hủy bỏ nhãn hiệu.
Cho đến nay, pháp luật về Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam vẫn chưa quy định một cách cụ thể, rõ ràng các tiêu chí để xác định như thế nào là đăng ký nhãn hiệu với “dụng ý xấu” hay với mục đích “không trung thực”. Tuy nhiên, căn cứ vào các phán quyết của tòa án cũng như trong các quyết định của các cơ quan có thẩm quyền như Cục Sở hữu trí tuệ (NOIP) và Bộ Khoa học và Công nghệ (MOST) liên quan tới vấn đề này thì có thể hiểu “hành vi “không trung thực” trong việc nộp đơn đăng ký nhãn hiệu là hành vi đăng ký mà người nộp đơn đã biết hoặc phải biết sự tồn tại và đã được sử dụng của một nhãn hiệu của người khác ở trong nước và kể cả nước ngoài”. Việc “biết” hoặc “phải biết” thường đặt ra trong các trường hợp chính sau đây:
– Nhãn hiệu của người nộp đơn trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc nhãn hiệu đã được sử dụng rộng rãi trước thời điểm nộp đơn;
– Người nộp đơn đã có mối quan hệ (Đại lý phân phối, hợp tác kinh doanh, bên được thuê thiết kế hoặc thuê gia công, người lao động…) với Chủ sở hữu thực sự của nhãn hiệu trước thời điểm nộp đơn…
Để giải quyết tình trạng nhãn hiệu của mình bị người khác đăng ký với “dụng ý xấu”, chủ sở hữu thực sự của nhãn hiệu có thể sử dụng một trong những biện pháp sau đây:
Thứ nhất, trong trường hợp có chủ thể khác đã đăng ký nhãn hiệu nhưng vẫn đang trong thời gian thẩm định nên chưa được cấp văn bằng bảo hộ thì chủ sở hữu thực sự có thể thực hiện thủ tục phản đối đơn đăng ký nhãn hiệu đó. Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 117 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành thì Đơn đăng ký nhãn hiệu sẽ bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ trong trường hợp có cơ sở để khẳng định rằng người nộp đơn không có quyền đăng ký đối tượng sở hữu công nghiệp hoặc đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu. Để tiến hành phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ đối với đơn đăng ký nhãn hiệu, chủ sở hữu thực sự phải lập văn bản nêu ý kiến phản đối kèm theo tài liệu hoặc trích dẫn nguồn thông tin để chứng minh gửi tới Cục Sở hữu trí tuệ và phải nộp phí, lệ phí. Trong đó, chủ sở hữu thực sự của nhãn hiệu cần phải chứng minh được một số vấn đề như: (i) số lượng khách hàng đã biết đến nhãn hiệu; (ii) thời gian sử dụng nhãn hiệu liên tục; (iii) doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu,…
Thứ hai, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 96 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành: Văn bằng bảo hộ sẽ bị hủy bỏ toàn bộ hiệu lực trong trường hợp người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu. Như vậy, đối với tình huống nhãn hiệu đã bị chủ thể khác đăng ký với “dụng ý xấu” và cũng đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ thì chủ sở hữu thực sự cần thực hiện việc yêu cầu hủy bỏ hiệu lực của văn bằng bảo hộ này. Để yêu cầu chấm dứt, hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu, chủ sở hữu thực sự của nhãn hiệu có thể tự mình hoặc ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác gửi văn bản yêu cầu hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu đến Cục Sở hữu trí tuệ và phải nộp phí, lệ phí.
Thứ ba, một cách giải quyết được áp dụng khá phổ biến là đàm phán, thương lượng để mua lại nhãn hiệu của chính mình nhằm tiết kiệm thời gian, nhưng trong phần lớn các trường hợp này, chi phí phải bỏ ra là con số không hề nhỏ. Nếu như đơn đăng ký nhãn hiệu chỉ mới được công bố và chưa cấp văn bằng bảo hộ thì các bên sẽ tiến hành thủ tục chuyển nhượng đơn đăng ký nhãn hiệu. Mặt khác, khi nhãn hiệu đã được cấp văn bằng bảo hộ thì thủ tục cần được thực hiện là chuyển nhượng văn bằng bảo hộ nhãn hiệu.
Để được tư vấn và sử dụng dịch vụ Quý khách vui lòng liên hệ:
—————————————————
CÔNG TY LUẬT TNHH THB LAW
Văn phòng đại diện: Cà phê A+, LK03-01 Đường Tố Hữu, KĐT Roman Plaza Hải Phát, Phường Đại Mỗ, Quận Nam Từ Liêm, Hà Nội
Điện thoại: 0836383322
Email: huyenvu@thblaw.com.vn
Website: thblaw.com.vn
Từ khóa :
Bài viết liên quan
Đăng vào ngày: 01/10/2024
Đăng ký quyền sở hữu trí tuệ có thể bảo hộ rất nhiều thông tin trên nhãn mác và bao bì sản phẩm, do đó khi quyết định gắn nhãn mác, bao bì cho sản phẩm cần phải xem xét kĩ các thông tin bảo hộ và cần biết bảo hộ như thế nào, vào […]
Xem thêm
Đăng vào ngày: 30/09/2024
Việc đăng ký độc quyền nhãn hiệu, logo, thương hiệu đã trở nên rất phổ biến trên thế giới và tại Việt Nam. Tại Việt Nam mỗi năm trung bình có khoảng trên 30.000 đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ. Để đảm bảo quyền lợi về mặt pháp […]
Xem thêm
Đăng vào ngày: 28/09/2024
Nhãn hiệu là một trong những đối tượng bảo hộ của pháp luật sở hữu trí tuệ, là một tài sản vô hình gắn liền với một loại hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Các hành vi xâm phạm nhãn hiệu đang trở nên phổ biến hiện nay, với các thủ đoạn ngày càng […]
Xem thêm
Đăng vào ngày: 27/09/2024
Trong thời đại cạnh tranh hiện nay, đăng ký nhãn hiệu độc quyền là việc hết sức quan trọng để đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp. Có rất nhiều lĩnh vực cần được đăng ký nhãn hiệu độc quyền từ sớm để giảm thiểu các rủi ro. Những kiến thức dưới đây sẽ giúp […]
Xem thêm